“Truyền thống là tập hợp những tư tưởng, tình cảm thói quen trong tư duy, trong lối sống và ứng xử của một cộng đồng nhất định được hình thành trong lịch sử và trở nên ổn định được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”(1). Truyền thống có vai trò điều tiết, kiểm soát hoạt động và tiến trình của đời sống xã hội; không phải là cái gì đó cố định vĩnh viễn, bất biến mà nó có thể được cải thiện bổ sung và phát triển qua thời gian; là yếu tố di tồn truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác, chi phối hành vi xã hội của cộng đồng người; truyền thống là truyền lại kinh nghiệm quá khứ cho các thế hệ mai sau… “Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối tiếp của những thế hệ riêng rẽ, trong đó, mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những thế hệ trước để lại, do đó mỗi thế hệ, một mặt, tiếp tục các hoạt động được truyền lại trong đó hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi”(2). Vai trò của truyền thống đối với quá trình vận động, phát triển của xã hội thể hiện ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của truyền thống ở chỗ, nó là yếu tố nội lực, là điểm tựa, là giá đỡ cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Mặt tiêu cực của truyền thống là nó có thể tạo ra sức ỳ, sự trì kéo làm chậm quá trình phát triển xã hội. Ở từng thời kỳ lịch sử khác nhau, giai cấp thống trị thường lợi dụng khai thác truyền thống để củng cố duy trì sự thống trị bền vững của giai cấp mình.
“Truyền thống là tập hợp những tư tưởng, tình cảm thói quen trong tư duy, trong lối sống và ứng xử của một cộng đồng nhất định được hình thành trong lịch sử và trở nên ổn định được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”(1). Truyền thống có vai trò điều tiết, kiểm soát hoạt động và tiến trình của đời sống xã hội; không phải là cái gì đó cố định vĩnh viễn, bất biến mà nó có thể được cải thiện bổ sung và phát triển qua thời gian; là yếu tố di tồn truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác, chi phối hành vi xã hội của cộng đồng người; truyền thống là truyền lại kinh nghiệm quá khứ cho các thế hệ mai sau… “Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối tiếp của những thế hệ riêng rẽ, trong đó, mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những thế hệ trước để lại, do đó mỗi thế hệ, một mặt, tiếp tục các hoạt động được truyền lại trong đó hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi”(2). Vai trò của truyền thống đối với quá trình vận động, phát triển của xã hội thể hiện ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của truyền thống ở chỗ, nó là yếu tố nội lực, là điểm tựa, là giá đỡ cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Mặt tiêu cực của truyền thống là nó có thể tạo ra sức ỳ, sự trì kéo làm chậm quá trình phát triển xã hội. Ở từng thời kỳ lịch sử khác nhau, giai cấp thống trị thường lợi dụng khai thác truyền thống để củng cố duy trì sự thống trị bền vững của giai cấp mình.
Ngày nay, gạo tẻ đã trở thành nguồn lương thực chính trong ẩm thực của người Thái. Tuy nhiên, gạo nếp vẫn được coi là món ăn truyền thống của họ. Để chế biến gạo nếp, người Thái thường ngâm gạo qua đêm, sau đó đem đun lên và chế biến thành xôi. Món ăn này thường được kết hợp với ớt giã hoà muối, tỏi, các loại rau thơm, mùi, lá hành và thịt của các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại như gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng… Tất cả được kết hợp lại gọi là món chéo.
Các món ăn của người Thái rất đa dạng, bao gồm cả các loại thịt của gia súc, gia cầm và các món cá, cua, ghẹ, tôm. Thịt được chế biến thành nhiều món như nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm, nướng, lùi, đồ, sấy, canh, xào, rang, luộc… Người Thái ưa thích các vị cay, chua, đắng, chát, bùi và ít sử dụng các vị ngọt, lợ, đậm, nồng. Trong ẩm thực của họ, nước mắm và rượu cần là hai loại gia vị không thể thiếu.
Ngoài ra, người Thái cũng có thói quen hút thuốc lào bằng điếu ống tre hoặc nứa và châm bằng mảnh đóm tre ngâm hoặc khô nỏ. Trước khi hút, họ thường có thói quen mời các vị khách xung quanh như trước khi ăn.
Trước đây, người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và theo truyền thống, việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có hai bước chính:
Tuy nhiên, hiện nay, việc lấy vợ và lấy chồng của người Thái đã thay đổi nhiều, phù hợp với tình hình xã hội hiện đại.
Lễ tang của người Thái gồm hai bước chính:
Người Thái Đen thường tổ chức lễ cúng tổ tiên vào tháng 7 hoặc tháng 8 âm lịch hàng năm. Trong lễ cúng, người Thái Đen sẽ đưa các món đồ và thức ăn lên bàn cúng, gọi là “bàn tổ”, để tưởng nhớ và tôn vinh tổ tiên của mình.
Người Thái Trắng lại tổ chức lễ tết theo lịch âm. Trong dịp này, họ thường dùng các loại thực phẩm truyền thống như bánh chưng, bánh giầy, thịt lợn, gà, và rượu để cúng tết và chúc mừng.
Còn bản Mường thì tổ chức nhiều loại lễ cúng khác nhau, bao gồm cúng thần đất, thần nước, thần núi và các linh hồn của người đã khuất. Những lễ cúng này thường được tổ chức vào các dịp đặc biệt hoặc vào các ngày lễ quan trọng.
Các nhóm người Thái, bao gồm Thái Trắng và Thái Đen, có nhiều điểm chung trong trang phục hằng ngày, tuy nhiên vẫn có nét đặc trưng riêng để phân biệt. Phụ nữ Thái Trắng thường mặc áo cánh ngắn màu sáng, trắng, có thể được cài cúc bạc tạo hình bướm hoặc ong; váy thường màu đen không có hoa văn. Khăn đội đầu bằng vải chàm dài khoảng hai mét.
Mặc dù có những điểm khác biệt trong trang phục, nhưng cả phụ nữ Thái Trắng và Thái Đen đều rất tinh tế và tỉ mỉ trong cách ăn mặc, tạo nên nét đẹp riêng của mỗi nhóm.
Ở Việt Nam, có hai nhóm Thái lớn là Thái Trắng và Thái Đen, cùng với một vài nhóm nhỏ khác. Nhà của người Thái Trắng có nhiều đặc điểm giống với nhà của người Tày-Nùng, trong khi nhà của người Thái Đen lại gần với nhà của các dân tộc Môn-Khơ Me.
Nhà Thái Đen có nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ được trang trí theo nhiều kiểu khác nhau.
Bộ khung nhà của người Thái Đen có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Khay điêng tương tự như khứ kháng của người Tày-Nùng, nhưng có thêm hai cột để mở rộng. Cách bố trí trên mặt bằng của nhà Thái Đen khá độc đáo: mỗi gian đều có tên riêng, và trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành cho nơi ngủ của các thành viên trong gia đình và một nửa dành cho bếp và tiếp khách nam.
Trong suốt chiều dài hơn 4 nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã bao lần phải vùng lên đánh đuổi giặc ngoại bang xâm lược. Vì thế, nỗi ước mong, khát vọng hòa bình, độc lập luôn dồn nén, cháy bỏng trong mỗi người dân nước Việt. Đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, khát vọng ấy đã được thổi bùng lên, biến thành sức mạnh dời non lấp biển. Ngày 2/9/1945, ước mong cháy bỏng của dân tộc đã thành hiện thực.
Từ một nước Việt Nam thuộc địa, không có tên trên bản đồ thế giới, dân tộc Việt Nam đã có thể ngẩng cao đầu, đã hiên ngang khẳng định vị thế là một quốc gia độc lập, tự chủ. Sau ngày lập nước, lớp cha trước, lớp con sau lại nối tiếp nhau chiến đấu, hi sinh để bảo vệ và giữ vững nền độc lập.
Trong không khí tự hào của ngày Tết độc lập, chúng ta cùng nhìn lại một chặng đường đầy gian nan, thử thách nhưng cũng vô cùng vinh quang và tự hào của dân tộc Việt Nam qua trao đổi giữa phóng viên VOV với Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên, Giảng viên chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
Người Thái có truyền thống nông nghiệp phong phú và có nhiều kinh nghiệm trong việc đào mương, dựng đập, bắc máng lấy nước để làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính của họ, đặc biệt là lúa nếp. Ngoài ra, họ cũng trồng nhiều loại cây khác như hoa màu, trái cây, rau củ… để đa dạng hoá nguồn thực phẩm.
Ngoài nông nghiệp, từng gia đình người Thái còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, làm đồ gốm… Sản phẩm nổi tiếng của họ là vải thổ cẩm với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và bền đẹp. Điều này thể hiện khả năng thủ công của người Thái, đồng thời đóng góp vào sự đa dạng hóa văn hóa và kinh tế của địa phương.
Dân số: Theo số liệu của cuộc điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, dân tộc Thái có 1.820.950 người, trong đó có 910.202 nam và 910.748 nữ.
Cư trú: Người Thái là một trong những dân tộc thiểu số đông đảo ở Việt Nam, chủ yếu cư trú tại các tỉnh sau đây: Hòa Bình, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, và Nghệ An. Tuy nhiên, quá trình di cư và phát triển kinh tế đã mở rộng địa bàn cư trú của người Thái ra các vùng khác, bao gồm cả các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên.
Người Thái sử dụng ngôn ngữ Thái, một trong những ngôn ngữ của người Thái trong khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, người Thái ở Việt Nam cũng thường sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày và trong các hoạt động xã hội.
Người Thái sở hữu ngôn ngữ và văn tự độc đáo. Họ thuộc nhóm nói tiếng Thái trong ngữ hệ Kra-Dai (hay còn gọi là Tai-Kadai), được xếp vào họ ngôn ngữ cùng tên. Các ngôn ngữ Thái có tỷ lệ từ vựng chung cao do có cùng cội nguồn.
Các ngôn ngữ Thái chủ yếu là ngôn ngữ đơn âm tiết, có thanh điệu. Cú pháp chủ yếu là SVO (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ). Trừ những câu mệnh lệnh, ít có trường hợp đảo ngược thứ tự này. Tại Việt Nam, có năm vùng thổ ngữ Thái gồm:
Văn tự của người Thái có nguồn gốc từ hệ chữ Sanskrit của Ấn Độ. Trong lịch sử, chữ Thái cổ ở Việt Nam được thống nhất về cách cấu tạo và đọc, nhưng lại có tám loại ký tự khác nhau, bao gồm: chữ Thái Đen, chữ Thái Trắng Mường Lay, chữ Thái Trắng Phong Thổ, chữ Thái Trắng Phù Yên, chữ Thái Trắng Mộc Châu, Mai Châu, Đà Bắc, chữ Thái Lai Xư (Tay Thanh), chữ Thái Lai Pao (Tương Dương, Nghệ An), chữ Thái Lai Tay hay chữ Thái Quỳ Châu (Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp thuộc tỉnh Nghệ An).
Từ năm 1954 đến 1969, chữ Thái ở khu tự trị Tây Bắc được cải tiến, thống nhất và đổi tên thành Chữ Thái Việt Nam thống nhất. Từ tháng 5/2008, chữ Thái cải tiến mới được chính thức đưa vào sử dụng, được gọi là chữ Thái Việt Nam.
Chữ Thái Việt Nam (Tai Viet) được mã hóa trong khu mã Unicode U+AA80..U+AADF , tuy nhiên, các font chữ phổ biến hiện nay trong máy tính không hỗ trợ hiển thị các ký tự này.