Chức Năng Khoa Học Của Lịch Sử Đảng

Chức Năng Khoa Học Của Lịch Sử Đảng

Án sát :Tháng 6 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), đặt chức Án sát ở 12 Thừa tuyên và đặt bat y (tức Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) quy định Án sát dưới quyền Tổng đốc, Tuần phủ. Ty Án sát sứ các tỉnh có Thông phán, Kinh lịch, bát cửu phẩm Thư lại, Vị nhập lưu thư lại. Số lượng nhiều ít tuỳ theo từng tỉnh.

Án sát :Tháng 6 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), đặt chức Án sát ở 12 Thừa tuyên và đặt bat y (tức Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) quy định Án sát dưới quyền Tổng đốc, Tuần phủ. Ty Án sát sứ các tỉnh có Thông phán, Kinh lịch, bát cửu phẩm Thư lại, Vị nhập lưu thư lại. Số lượng nhiều ít tuỳ theo từng tỉnh.

Quy định về triệu tập đại hội của tổ chức cơ sở đảng

Theo Điều 22 Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam 2011 quy định về triệu tập đại hội của tổ chức cơ sở đảng như sau:

- Đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở đảng do cấp uỷ cơ sở triệu tập năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn nhưng không quá một năm.

- Đại hội thảo luận văn kiện của cấp trên; đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua; quyết định nhiệm vụ nhiệm kỳ tới; bầu cấp uỷ; bầu đại biểu đi dự đại hội đảng bộ cấp trên.

- Khi cấp uỷ xét thấy cần hoặc khi có trên một nửa số tổ chức đảng trực thuộc yêu cầu và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý thì triệu tập đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên bất thường.

Đại biểu dự đại hội đại biểu bất thường là các cấp uỷ viên đương nhiệm, đại biểu đã dự đại hội đại biểu đảng bộ đầu nhiệm kỳ, đang sinh hoạt tại đảng bộ, đủ tư cách. Dự đại hội đảng viên bất thường là những đảng viên của đảng bộ đó.

- Đảng uỷ, chi uỷ cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần; họp bất thường khi cần.

- Đảng uỷ cơ sở có từ chín uỷ viên trở lên bầu ban thường vụ; bầu bí thư, phó bí thư trong số uỷ viên thường vụ; dưới chín uỷ viên chỉ bầu bí thư, phó bí thư.

- Đảng bộ cơ sở họp thường lệ mỗi năm hai lần; họp bất thường khi cần. Chi bộ cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần; họp bất thường khi cần.

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của LawNet. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email:[email protected]

VNHN - Khi mới từ nước ngoài trở về Việt Nam, không ít người có cảm giác lạ lẫm khi đọc báo thấy những trí thức khoa bảng luôn được kèm theo danh hiệu Giáo sư (GS), Phó giáo sư (PGS), Tiến sĩ (TS), và nhất là khi những danh hiệu này đi kèm nhau: GS.TS, PGS.TS(1).

Thậm chí, nhiều bạn đã có tiến sĩ, là giáo sư ở nước ngoài, cảm thấy ngượng ngùng, bối rối khi “được” gọi như vậy trên các phương tiện truyền thông đại chúng, không liên hệ gì đến học thuật, ở Việt Nam. Hơi ngượng, khá bối rối, nhưng rồi lại không dám yêu cầu báo chí không gọi là tiến sĩ vì như thế lại bị hiểu lầm là lập dị, là “kênh kiệu ngược” (reverse snobbery).

Thực ra, so với vô số đại sự của quốc gia thì chuyện danh xưng này quả là “nhỏ như con thỏ”, xin có đôi dòng phiếm luận để giải khuây cho bạn đọc.

Bằng tiến sĩ chứng tỏ điều gì và để làm gì? (2)

Ai đã lấy PhD ở Mỹ đều biết rằng bằng cấp này chỉ là một cái vé vào cửa để được phỏng vấn khi đi xin việc ở các đại học, các viện nghiên cứu ở nước ngoài. Thế thôi. Theo nhà kinh tế nổi tiếng Michael Spence (Nobel 2001) thì bằng cấp (do một đại học có uy tín cấp) cốt yếu là một tờ giấy chứng nhận cho những người không có cách nào khác để chứng tỏ khả năng (trong đó có sự kiên trì) của mình. Spence giải thích: một người có thực tài, ai nhìn cũng thấy ngay, thì không cần bằng cấp khi đi xin việc! Nói theo thuật ngữ kinh tế: bằng cấp là một “tín hiệu cho thị trường”.

Tiến sĩ là một bằng cấp tối hậu (final degree) của hệ thống giáo dục hiện đại, nhưng nó chỉ là một (trong nhiều) chỉ dấu của trí thức. Và ngay khi là chỉ dấu như thế, nó cũng không là chỉ dấu tột bậc. Ở các nước có một nền học thuật lâu đời, bằng tiến sĩ chỉ là một tấm vé để bước chân vào ngưỡng cửa của cộng đồng nghiên cứu và giảng dạy bậc đại học. Nó không phải là “vinh quang” tối hậu của một sự nghiệp học thuật. Uy tín của một nhà nghiên cứu, của một giáo sư tùy thuộc hoàn toàn vào những thành tựu của người ấy sau khi đã có bằng tiến sĩ (Einstein, chẳng hạn, không cần ai gọi mình là GS.TS!). Thậm chí, một nhà khoa học xuất chúng, dù không có bằng tiến sĩ vẫn được xã hội nể trọng hơn những người có bằng tiến sĩ, nếu người ấy có một sự nghiệp học thuật tầm vóc.

Đi đâu cũng tự xưng, hay đòi người khác gọi mình là giáo sư tiến sĩ (dù là giáo sư tiến sĩ thật, không phải dỏm), không chỉ là làm dáng, phô trương, mà còn cho mình một cảm giác (thường) sai lầm về những thành tựu thật sự của bản thân, rằng mình hiện đã đạt đến tột đỉnh của học thuật, và khó tránh khỏi sự tự mãn đầy kiêu căng. Không gì “phản trí thức” hơn phong thái ấy.

Tự xưng và gọi nhau là GS.TS thì có hại gì?

Nhiều người sẽ bảo, dù các cơ quan truyền thông có tâng bốc các giáo sư tiến sĩ, không bao giờ quên kèm theo học vị học hàm khi viết tên họ, thì có hại gì ai? Sao không xem đó như phản ảnh sự kính trọng “kẻ sĩ” của văn hóa Việt Nam? Vâng, nhìn từ một góc cạnh nhỏ hẹp thì quả việc này là không đáng kể so với những vấn đề trọng đại của đất nước. Tuy nhiên, nó có thể liên hệ đến những hiện tượng khác làm suy giảm chất lượng đời sống của chúng ta. Chẳng hạn:

Bằng cách tung hô danh xưng GS, PGS, TS... các cơ quan truyền thông vô tình đơn điệu hóa thang trí thức học thuật, và từ đó, các giá trị xã hội. Bởi, như đã nói, những học hàm, học vị này là chức vụ trong lĩnh vực giáo dục, là một chỉ dấu của khả năng nghiên cứu. Chúng không nhất thiết có hàm ý nào về giá trị toàn diện của con người (mà phần chính, hiển nhiên, là đạo đức). Gắn kết học vị học hàm, mà không một đặc điểm nào khác, với danh tính một người là mặc nhiên đưa nó lên vị trí hàng đầu. Nói thẳng ra, theo ý người viết bài này, chính “thói quen” này của giới truyền thông đã giúp duy trì nạn “sính bằng cấp” trong xã hội Việt Nam.

Nạn sính bằng cấp, từ đó, sẽ có hậu quả dễ hiểu đến chất lượng tiến sĩ: khi mà sự ham muốn bằng cấp không thể được thỏa mãn vì khả năng học tập và nghiên cứu của “đương sự” là “có hạn” thì tất nhiên sẽ sinh ra những tiến sĩ dỏm, những luận văn không đáng được gọi là luận văn. Báo chí đừng gọi họ là tiến sĩ nữa thì chất lượng tiến sĩ sẽ khá lên, vì lúc ấy chỉ những người thật sự có năng lực, có trí tuệ, đam mê nghiên cứu, giảng dạy... mới bỏ công dùi mài kinh sách trong một chương trình tiến sĩ, loại bỏ những “phần tử” “sinh ra không phải để theo đuổi học thuật” (mà trong một xã hội bình thường là hoàn toàn bình thường, không có gì để mặc cảm), chạy chọt lấy “tiến sĩ” chỉ vì hám danh. Gạn lọc những phần tử “không thích hợp” này thì chất lượng tiến sĩ đương nhiên sẽ khá lên!

Báo chí vô tình cũng là tòng phạm trong hiện tượng này. Bởi vậy, tôi nghĩ, các giáo sư tiến sĩ khi được phỏng vấn, hãy nói thẳng với phóng viên là không cần để là GS.TS trước tên ông/bà.

Song, phải nhìn nhận, đây là một tập quán khó thay đổi. Nếu một cá nhân muốn như thế và yêu cầu người phỏng vấn mình làm như thế thì cũng chưa chắc nhà báo sẽ nghe theo, vì nhà báo cũng muốn được hãnh diện là họ phỏng vấn một vị “giáo sư, tiến sĩ” chứ không phải “thường dân”!

(1) Nếu người ấy hiện có giữ một chức vụ khác (bộ trưởng, chủ tịch...) thì chỉ nên dùng những chức vụ hiện tại, không cần phải thêm là GS.TS gì cả.

(2) GS, hoặc TS là đủ, không cần gọi cả hai (GS.TS). Ở các quốc gia có những danh hiệu này lâu đời, hầu hết giáo sư đều có bằng tiến sĩ, gọi GS.TS là thừa. Nên để ý rằng tiến sĩ có thể không là giáo sư (chẳng hạn những nhà khoa học làm việc trong các viện nghiên cứu).

(3) Chỉ tự xưng là giáo sư hay tiến sĩ trong những hoàn cảnh mà danh hiệu ấy chuyển tải một thông tin có ích cho người đọc/nghe, và nếu người đối thoại không biết thông tin ấy (3). Theo tôi, chỉ nên gọi giáo sư (hoặc tiến sĩ, không cần cả hai) trong khuôn viên đại học, viện nghiên cứu, hoặc trong các hội nghị, hội thảo khoa học.

Tôn vinh những người có đạo đức, thực tâm, thực tài là một điều xã hội nên làm. Nhưng để tôn vinh những người xứng đáng, và với sự trân quý thật lòng, xã hội không nên dừng lại ở danh hiệu tiến sĩ mà phải chịu khó tìm biết xem người ấy có những công trình nghiên cứu, những đóng góp khoa học nào, dạy ở trường nào, bao nhiêu năm... và thể hiện sự nể trọng (nếu thấy họ xứng đáng) bằng cách nghiêm túc lắng nghe ý kiến của họ, đọc những gì họ viết. Dù rằng việc kiểm chứng ấy sẽ không dễ đối với đa số không quen thuộc với môi trường học thuật (nhưng lắm khi Google vài phút là biết ngay!), song đó cũng là một cách nâng cao kiến thức của mọi người. Một trí thức đích thực sẽ vô cùng cảm kích khi đối thoại với một người quan tâm đến nghiên cứu của mình, được nghe những câu hỏi phản ảnh một sự hiểu biết về công việc và những thành tựu của trí thức ấy. Đó là cách tốt nhất để tôn vinh “tiến sĩ”!

(1) Nhiều quốc gia khác, như Nga, Đức, cũng có phong tục này, nhưng tôi không biết nhiều về bối cảnh xã hội và truyền thống lịch sử của họ nên chỉ xin nói về trường hợp Việt Nam. Đèn nhà ai nấy sáng!

(2) Xin nói rõ, đây là nói về bằng tiến sĩ “thật”. Dường như vấn nạn tiến sĩ dỏm, tiến sĩ kém chất lượng, cũng rất trầm trọng ở Việt Nam, nhưng đó là một vấn đề khác.

(3) Ví dụ, nếu trên máy bay có một hành khách ngã bệnh, và nếu bạn là bác sĩ, thì bạn có quyền (đúng ra là bổn phận!) hô lớn: Tôi là bác sĩ! Nhưng bạn không cần phô trương học hàm học vị của bạn với người bán cà phê chẳng hạn!

Trong môn học này, học viên sẽ tìm hiểu 7 chương, tương ứng với 7 bài học:

Bài 1. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.

Bài 2: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930)

Bài 3. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)

Bài 4. Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)

Bài 5. Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và  kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975)

Bài 6: Lãnh đạo cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội  bảo vệ Tổ quốc (1975-1986)

Bài 7: Lãnh đạo công cuộc đổi mới, ẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa  hội nhập quốc tế (1986-2018)

Trong thời gian học dự kiến là 6 tuần, việc phân bổ tuần học là rất quan trọng. Nếu các bạn có bất cứ câu hỏi nào hãy kết nối với mentor để được giải đáp.